Rau Má: Công Dụng Của Loài Cây Quen Thuộc
( ) còn gọi là tích tuyết thảo, họ Hoa tán (Apiaceae).
Đây là một loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá có cuống dài, phiến lá khía tai bèo tròn, gốc lá hình tim. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 đến 5 hoa nhỏ. Quả dẹt.
Ở nước ta, cây mọc tự nhiên khắp nơi, từ vùng hải đảo, ven biển đến vùng núi. Cây ưa ẩm, hơi chịu bóng, mọc thành đám ở vườn, bãi sông suối, nương rẫy, bờ ruộng và ven rừng.
Nguồn rau má tự nhiên dồi dào nhưng chỉ mới được khai thác dùng tại chỗ, chưa trở thành mặt hàng thương mại hóa.
: Toàn cây, thường được dùng tươi hoặc có thể phơi sấy khô. Thu hái quanh năm.
Nhóm hợp chất có hoạt tính sinh học nổi bật nhất trong rau má là nhóm . Trong đó, là một triterpene glycoside chiếm hàm lượng nhiều nhất. Người ta cho rằng, trong cơ thể Asiaticoside thủy phân thành đường và Asiatic Acid - sản phẩm trao đổi chất chịu trách nhiệm trong việc chữa bệnh.
Asiaticoside có khả năng và chống lại được mầm bệnh và nấm.
Ngoài ra, trong rau má còn có 1 lượng nhỏ tinh dầu, cũng có khả năng kháng khuẩn.
Hoạt chất asiaticoside đã được chứng minh hiệu quả trong điều trị bệnh phong, do làm tan bao bằng chất giống sáp của trực khuẩn phong, làm cho nó trở nên mỏng manh và dễ bị phá hủy.
Nước rau má sắc có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn mủ xanh và tụ cầu khuẩn vàng.
Ngoài ra, trong một nghiên cứu còn cho thấy, dịch chiết rau má có khả năng ức chế một số vi sinh vật gây bệnh trên da như vi khuẩn , vi nấm .
Thuốc mỡ rau má có tác dụng kích thích tái tạo tổ chức tế bào và điều chỉnh quá trình lên sẹo của vết thương do gây bỏng thực nghiệm. Tại vết bỏng sẽ phát triển tổ chức hạt, lên da non và tốt.
Đối với vết thương do loét, viêm mô tế bào, rau má cũng có tác dụng , góp phần làm lành vết thương.
Dịch chiết rau má có hoạt tính chống co thắt,, ức chế hệ thần kinh trung ương, an thần và hạ áp.
Rau má có tác dụng gây ngủ, giảm đau trung gian qua các thụ thể đáp ứng với thuốc phiện. Cao cồn ethylic có hoạt tính chống stress, trong đó có stress gây ra loét dạ dày ở vật thí nghiệm.
Đối với mạch máu, rau má có thể tăng cường sức bền thành mạch.
Rau má khá lành tính. Chỉ độc khi dùng liều rất lớn, hoặc liều thời gian dài. Nó có thể gây mệt, nhức đầu, chóng mặt, đôi khi là hôn mê.
Rau má có vị hơi đắng, ngọt, tính hơi mát.
Tác dụng , giải độc, lợi tiểu, chữa sốt; chữa rôm sảy, mẩn ngứa, bệnh về gan, viêm họng, lợi sữa.
Y học hiện đại sử dụng rau má và Saponin toàn phần trong Rau má để điều trị bỏng độ II và III, vết thương và các tổn thương ngoài da.
Nó cùng được dùng để ngăn ngừa sự sừng hóa tạo
Dịch chiết được dùng ngoài để tăng cường sự lành vết thương, đặc biệt trong hậu sang thương hay hậu phẫu.
Sử dụng đường uống Rau má có tác dụng điều trịdo stress.
Các sản phẩm của Rau má còn được dùng trong
Ngoài ra, Rau má con được sử dụng trong điều trị các vết loét do bệnh phong, eczema, các rối loạn tĩnh mạch. Rau má cũng có tác dụng giảm viêm ứ ở bệnh nhân xơ gan.
Đơn giản nhất là mỗi ngày dùng 30 - 40g cây tươi, vò nát, sắc lấy nước uống hoặc phơi khô sắc uống, có tác dụng thanh nhiệt, trị mụn nhọt, mát gan.
Ngoài ra, rau má còn được sử dụng trong những bài thuốc sau:
Rau má (cả dây, cả lá) rửa sạch, thêm ít muối, nhai sống. Ngày ăn chừng 30 - 40g ( Kinh nghiệm nhân dân nhiều nơi). Có thể luộc rau má mà ăn như rau.
Rau má hái lúc ra hoa, phơi khô tán nhỏ. Ngày uống một lần, vào buổi sáng, mỗi lần hai thìa cà phê gạt ngang.
Hàng ngày ăn rau má trộn dầu dấm. Hoặc rau má hái về giã nát, vắt lấy nước, thêm đường mà uống hằng ngày.